Hotline:

  0356071900

Email:

 hocvankhongkho.edu@gmail.com

Kết nối đọc viết


I.NHẬN XÉT - CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT

1.Cách làm

GV diễn tả trên sơ đồ để HS dễ hình dung. Bản chất cảm nhận nhân vật là cảm nhận tất cả các yếu tố trong sơ đồ theo:

- Đọc đoạn trích để xem nhân vật có tính cách, số phận, phẩm chất gì?

- Đưa ra từng bằng chứng để chứng tỏ điều đó (lấy phần màu tím trên sơ đồ) 

- Đánh giá nghệ thuật

- Làm nổi bật chủ đề, thông điệp gì?

LUẬN ĐIỂM => BẰNG CHỨNG => NHẬN XÉT NGHỆ THUẬT + NỘI DUNG

Bước 1: (Nêu luận điểm) Trả lời cho câu hỏi: Nhân vật có số phận/ phẩm chất gì?

Bước 2: (Nêu bằng chứng )

(1) Chọn các bằng chứng tiêu biểu với luận điểm, 

(2) Diễn giải/ trích lại theo các ý:

  1. - Lai lịch, hoàn cảnh

- Ngoại hình 

- Suy nghĩ

- Hành động

- Lời nói

- Cái nhìn của nhân vật khác

(3) Chứng tỏ điều gì về phẩm chất/ số phận gì của nhân vật? (nếu có/ nếu đề yêu cầu) 

Bước 3: (Nhận xét Nghệ thuật)

Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tiêu biểu gì để xây dựng nhân vật? (biện pháp tu từ, ngôn ngữ, tình huống, ngôi kể, điểm nhìn, cốt truyện, giọng kể,…)

Bước 4: (Nhận xét nội dung)

- Nếu là nhân vật phụ: góp phần làm nổi bật đặc điểm gì của nhân vật chính? Từ đó làm nổi bật chủ đề, thông điệp gì của tác phẩm?

- Nếu là nhân vật chính: làm nổi bật chủ đề, thông điệp gì của tác phẩm?



2. Cấu trúc gợi ý

Bước 1: Nhân vật A trong tác phẩm B của nhà văn C là một người có ….(số phận/ phẩm chất như thế nào?)

Bước 2: 

- Chi tiết “…” / (Kể lại) đã bộ lộ nét tính cách/ phẩm chất/ số phận của A. 

- Phẩm chất ABC của nhân vật đã được hiện lên thông qua chi tiết (lời nói/ ngoại hình/ hành động…):…

- Tiếp theo, bạn đọc còn ấn tượng với hành động/ suy nghĩ của nhân vật: “…”

- Các hành động/ lời nói/ suy nghĩ của nhân vật A đã biểu lộ/ hé mở/ bộc lộ/ khắc hoạ/ chứng tỏ/ cho ta thấy …đây là một con người rất…. 

+ Bất hạnh, nhiều nỗi khổ tâm, nhạy cảm, tội nghiệp, đáng thương, khổ sở

+ Thông minh, nhanh trí, hoạt bát, tháo vát, khéo léo, cẩn trọng, giỏi giang, sáng tạo, nhanh nhẹn, tinh nghịch, hồn nhiên, trẻ con, bướng bỉnh, đáng yêu, vô tư, hài hước, dí dỏm

+ Giàu tình yêu thương, giàu đức hy sinh, nhân hậu, bao dung, hiền lành, lương thiện, chất phác, mộc mạc, cởi mở, chân thành, hiếu khách, ham học

+ Yêu nghề, yêu lao động, có tinh thần trách nhiệm cao, giàu lí tưởng, tận tuỵ, giàu đam mê, giàu sức sống yêu tự do, yêu thiên nhiên, yêu đời, lạc quan

+ Tự trọng, chăm chỉ, cần cù, trung thực, khiêm tốn, thẳng thắn, nghị lực, can trường, quả cảm, dũng cảm, mạnh mẽ, quyết đoán, liều lĩnh, táo bạo, kiên cường.

… 

Bước 3: 

- Để xây dựng thành công nhân vật A, tác giả còn khéo léo sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ngôn ngữ độc thoại, đối thoại… / tình huống truyện đặc sắc, ngôn ngữ kể chuyện lôi cuốn, ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật, …

Bước 4: 

- Qua việc xây dựng nhân vật A, ta thấy được niềm (xót xa, thương cảm, xúc động, trân trọng, phẫn nộ, …) của tác giả về….

- Hoặc: Thông qua A, (chủ đề gì của tác phẩm) đã được khắc hoạ thật thành công và sâu sắc.



3. Ví dụ

VD: Viết đoạn văn khoảng 7-9 câu cảm nhận về nhân vật dì Mây. 

Dì Mây được tác giả miêu tả với ngoại hình thanh thoát, đẹp đẽ của người con gái đôi mươi. (Bước 1). Trước khi tham gia chiến tranh, dì Mây có một mái tóc vô cùng suôn mượt, mềm mại. Mỗi lần gội đầu, dì đều nhờ Mai lấy ghế để đứng lên chải tóc. Vẻ đẹp mái tóc khiến cho chú San "nhìn trộm cũng giật mình". Nhiều lúc ra triền sông chơi, "chạy ngược chiều gió thổi, tóc dì xổ tung bay bồng bềnh, bồng bềnh như mây" làm "Mai thầm ước khi thành thiếu nữ có mái tóc mây dài đẹp như dì". Nhan sắc của dì Mây còn khiến bao người ao ước, đắm say "Ngày xưa dì đẹp nhất làng", "Có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm". Lúc tắm sông, dì để lộ ra bờ vai trần, khuôn ngực căng đầy và chiếc cổ trắng ngần cùng đôi mắt lung linh, huyền hoặc… Đó là một vẻ đẹp hết sức mềm mại, nhẹ nhàng và thanh khiết  (Bước 2 – đưa ra bằng chứng làm rõ từng vấn đề đã nêu ở Bước 1).  

   Bên cạnh ngoại hình, dì Mây còn để lại cho người đọc bao ấn tượng và rung cảm bởi vẻ đẹp phẩm chất. Có thể thấy, dì Mây là người con gái vô cùng chung thủy. (Bước 1).  Suốt thời gian dài làm nhiệm vụ cứu chữa người bệnh ở rừng Trường Sơn, dì Mây không lúc nào là không nhớ đến chú San, "Ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào em cũng viết tên anh.". Dù xa nhau nhưng dì luôn mang nặng tình yêu thương đối với chú San. Ông trời như trêu ngươi khi ngày dì về cũng là ngày người yêu dì - chú San đi lấy vợ. Tình cảm dành cho chú chưa bao giờ vơi bớt song dì vẫn kiên quyết không đồng ý với lời đề nghị "Mây! Chúng ta sẽ làm lại", "Anh sẽ từ bỏ tất cả. Chúng ta sẽ về sống với nhau.". Nếu như không có chiến tranh, nếu như dì về sớm hơn một chút thì có lẽ đám cưới hôm nay sẽ là đám cưới của chú San với dì. Thế nhưng, hoàn cảnh trớ trêu ấy đã đẩy dì vào những chọn lựa vô cùng đau khổ. Khác với vẻ quỵ lụy ban nãy, dì dõng dạc nói "Không!" rồi mạnh mẽ "bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân" bỏ lại chú San ở sân. "Ván đã đóng thuyền", biết mọi chuyện tới bước đường này không thể thay đổi được nữa, dì nói "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!" rồi khuyên chú "Sự thể đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn". Câu nói ấy chất chứa bao nỗi xót xa, cay đắng cho phận mình. Dì Mây rất rạch ròi, dứt khoát, suy nghĩ thấu đáo trong mọi việc, không vì tình cảm mà làm những việc trái với đạo đức, trái với lương tâm. (Bước 2 – đưa ra bằng chứng làm rõ từng vấn đề đã nêu ở Bước 1).  

   Ở dì Mây còn ánh lên vẻ đẹp của nghị lực phi thường. (Bước 1).  Chưa bao giờ, người đọc thấy dì có ý định từ bỏ sự sống sau muôn vàn biến cố, nỗi đau. Mặc dù bị mất một bên chân nhưng hàng ngày dì vẫn cần mẫn giúp ông chèo đò. Không muốn phải tiếp tục chứng kiến người mình yêu bên cạnh người con gái khác, dì quyết định chuyển ra bến sông Châu. Có thể cuộc sống không mấy vui vẻ, song dì vẫn cố gắng vượt qua và vươn lên chính mình. (Bước 2 – đưa ra bằng chứng làm rõ từng vấn đề đã nêu ở Bước 1).  

Bằng cách kể chuyện vô cùng độc đáo, người kể đã mượn giọng điệu nhân vật Mai, cô cháu gái của Mây để kể lại cuộc đời dì mình. Cách cách kể đó tạo nên sự chân thực, hấp dẫn, giúp người viết thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật. Không gian của truyện là bến sông Châu, gợi mở nhiều lớp nghĩa; thời gian nghệ thuật được nhòe mờ, hiện tại, quá khứ đan xen, đó là thời gian tâm trạng. Với nghệ thuật miêu tả tâm trạng tinh tế, ngòi bút hiện thực của tác giả đã xoáy sâu vào góc khuất của chiến tranh với cái nhìn độc đáo, nỗi khổ đau bất hạnh của người phụ nữ. (Bước 3)   Song tấm lòng nhân đạo đã giúp nhà văn phát hiện được hạt ngọc đáng quý trong những tâm hồn khốn khổ. Hạt ngọc đẹp đẽ ấy toả ra từ bản lĩnh sống mạnh mẽ và trái tim nhân ái bao dung. Dì Mây vẫn sống, nỗi ám ảnh đau thương của cuộc chiến vẫn còn, người đọc sẽ dõi theo và hi vọng hạnh phúc sẽ mỉm cười với Mây. (Bước 4)


II. NHẬN XÉT - CẢM NHẬN VỀ MỘT CHI TIẾT

1.Cách làm

* Đối với nhân vật

- Bước 1: Tìm luận điểm và dẫn dắt

🡪 Đọc qua một lượt đoạn trích để xác định: 

+ Nhân vật có mấy vẻ đẹp? Đó là những vẻ đẹp nào?/ 

+ Nhân vật hiện lên là người như thế nào? (tính cách, thói quen, suy nghĩ, hành động, đặc điểm nổi bật,…)

- Bước 2: Tìm biểu hiện 

🡪 Luận điểm (1) được thể hiện qua: 

./ Hành động nào?

./ Cảm xúc/ thái độ nào?

./ Suy nghĩ gì?

=> Phải trích lại các từ ngữ trong đoạn trích (Dẫn chứng)

+ Tương tự với các luận điểm (2), (3) nếu có.

- Bước 3: Bình luận.

+ Cách 1: Thử đoán xem nhân vật có suy nghĩ, mong muốn gì khi làm điều đó?

+ Cách 2: Qua đó, ta thấy nhân vật có: tính cách gì/ phẩm chất, vẻ đẹp gì/ nỗi khổ, số phận gì?

+ Cách 3: Câu văn có nghệ thuật gì không, tác dụng của nghệ thuật ấy là gì?

+ Cách 4: 

./ Tác giả gửi gắm tư tưởng gì?

./ Tác giả có bày tỏ thái độ, cảm xúc gì không? Có thể hiện mơ ước gì không? 

./ Bản thân em cảm thấy ra sao?

* Đối với cảnh vật

- Bước 1: Tìm luận điểm và dẫn dắt

🡪 Đọc qua một lượt đoạn trích để xác định: Đó là cảnh gì? Ở đâu? Khi nào?

- Bước 2: Tìm biểu hiện 

🡪 Khung cảnh ấy được thể hiện qua:

+ Hình ảnh nào?

+ Âm thanh nào?

+ Màu sắc nào?

+ Nghệ thuật nào?

🡪 Không gian hiện lên thế nào?

🡪 Cảnh vật và con người hiện lên như thế nào?

=> Phải bám sát vào các từ ngữ trong đoạn trích vào phân tích lần lượt. Tuyệt đối không được kể lại/ tóm tắt nội dung.

CÔNG THỨC: Trích từ 🡪 Phân tích

- Bước 3: Bình luận.

+ Cách 1: Đó là một khung cảnh như thế nào? Con người hiện lên thế nào so với thiên nhiên (nếu có)?

+ Cách 2: Khung cảnh ấy gợi cho người đọc cảm nhận gì?

+ Cách 3: Nếu ở trong khung cảnh đó, ta sẽ cảm thấy thế nào?

🡪 Hẳn rằng, đặt mình trong hoàn cảnh/ khung cảnh/ cảnh tượng đó, ta sẽ thấy...

+ Cách 4: Câu văn có nghệ thuật gì không, tác dụng của nghệ thuật ấy là gì?

+ Cách 5: Tác giả có bày tỏ thái độ, cảm xúc gì không? Bản thân em cảm thấy ra sao?



2 Cấu trúc gợi ý

- Văn hào Nga Pau – tốp – ski đã từng nói: “Chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm” và quả vậy, hành động/ suy nghĩ/ thái độ/ tình cảm của nhân vật A trong/ khi… là một chi tiết đắt giá như thế.

🡪 Sử dụng cả cách dẫn dắt bên thơ.

- Dễ thấy rằng, nhân vật trước hết là người có… (vẻ đẹp/ số phận) và điều đó được thể hiện rõ nét qua… (nêu biểu hiện)

- Dưới ngòi bút tài hoa và lão luyện của A, khung cảnh…. đã khảm sâu vào tâm trí bạn đọc những ấn tượng khó phai mờ về một chốn nông thôn/ làng quê/ mảnh đất….. (như thế nào?)

- Nổi bật trong bức hoạ tuyệt bích/ ảm đạm ấy là những vạt màu tươi sáng/ u xám của… (trích hình ảnh).

- Hình ảnh… gợi ra một không gian/ âm thanh…

- … đã gợi ra những mảng màu…. (rực rỡ/ u tối)

- Biện pháp… đã mở ra trước mắt bạn đọc….



3. Ví dụ

3.1 Nêu cảm nhận về cảnh vật và con người trong đoạn trích: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đọn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa.

Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.”

- Khung cảnh : Tâm điểm của bức tranh cuộc sống là hình ảnh phiên chợ lúc cuối ngày. Chợ là một không gian đặc biệt, phản ánh đời sống kinh tế và sinh khí của khu vực. Chợ gắn với một trong những hoạt động sôi nổi nhất của con người - buôn bán trao đổi hàng hóa. Nhưng cái chợ này không náo nhiệt tràn đầy sinh khí mà lại là một cái chợ tàn, khi phiên đã hết ngày đã tắt: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.”. Không gì vui bằng cảnh chợ đông cũng không gì buồn bằng cảnh chợ tàn, phiên chợ cuối ngày hiện lên với nhịp sống chậm lại, sinh khí uể oải, phảng phất nét tiêu điều. Sau tất cả, phiên chợ chỉ còn lại “mùi âm ẩm”, rác rưởi và “một vài người bán hàng về muộn”. Thạch Lam đã sử dụng rất hiệu quả biện pháp liệt kê để thu vào góc máy của mình những góc quay toàn cảnh - “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất” - đến chi tiết sát mặt đất để làm nổi bật ấn tượng về sự nghèo nàn, xác xơ của phố huyện: “chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Từng chi tiết của cảnh chợ tàn đều toát lên sự héo úa, tàn phai với những tiêu điều, hiu quạnh. Ngay cả ngày họp phiên mà người ta cũng chỉ mang đi trao đổi những thứ có sẵn ở vườn nhà: “vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Phiên chợ càng sa sút về chất lượng đem lại cảm giác bất an về cái nghèo, cái tàn của một đời sống đang trên đà suy thoái.

- Con người: 

+ Những đứa trẻ con nhặt rác: Trên nền rác rưởi là những đứa trẻ “cúi lom khom trên mặt đất đi lại, nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Khi người ta nghỉ ngơi sau một ngày dài lại là lúc các em làm việc cật lực để mưu sinh. Đặt trong hoàn cảnh sung túc, sự đi lại kiếm tìm kia hẳn chỉ là trò nghịch ngợm, khám phá một cách vô tư, còn ở đây, các em lại tìm kiếm một cách nghiêm túc, cật lực và vội vàng. Trẻ thơ đáng ra phải được vui chơi nhưng các em từ thuở tấm bé đã phải mang trên mình bóng đen của cái nghèo bất hạnh. Những thứ chúng nhặt nhạnh chỉ là rác thải nghèo, thứ bị người ta bỏ lại từ một phiên chợ đã vãn của một phố huyện vốn nghèo nàn. Xót xa thay, mớ rác bần hàn đã trở thành hi vọng cho những đứa bé bần cùng. Đó là những đứa trẻ đáng thương với tuổi thơ bị vùi lấp trong cát, chúng xây dựng cuộc sống của mình trên nền một sự sống đã lụi tàn. Một kiếp sống tàn ngay từ tấm bé, tàn ngay từ khi mới bắt đầu.

3.2 Nêu cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên trong đoạn trích sau:  “Không phải ngày phiên, nên chợ vắng không. Mấy cái quán chơ vơ lộng gió, rác bẩn rải rác lẫn với lá rụng của cây đề. Gió thổi mạnh làm Sơn thấy lạnh và cay mắt. Nhưng chân trời trong hơn mọi hôm, những làng ở xa Sơn thấy rõ như ở gần. Mặt đất rắn lại và nứt nẻ những đường nho nhỏ, kêu vang lên lanh tanh dưới nhịp guốc của hai chị em”.

(Gió lạnh đầu mùa – Thạch Lam)

Luận điểm: Dưới ngòi bút tài hoa của Thạch Lam, không gian khu chợ hiện lên tựa một bức tranh tĩnh tại, đìu hiu, vương phảng nỗi buồn.

Dẫn dắt và trích dẫn/ biểu hiện

Cảm nhận

“Chợ”

vốn là một nơi đông đúc, nhộn nhịp với những món hàng rực rỡ, những lượt khách tấp nập ra vào hoà cùng những thanh âm vang vọng của kẻ mua, người bán. ( Nhận xét bằng cách liệt kê + tưởng tượng)

Có thể nói, “chợ” là một không gian đặc biệt, phản ánh đời sống kinh tế và sinh khí của một địa bàn. Ấy vậy nhưng, có lẽ khu “chợ” ở đây lại chẳng khoác lên mình sắc áo rực rỡ ấy mà phảng phất dư vị của sư đói nghèo. ( Nhận xét bằng cách tương phản)

Hai chữ “vắng không”

đã mở ra trước mắt bạn đọc những ấn tượng về cái hoang vắng, trống trơ, thưa thớt bóng người. (Nhận xét bằng cách liệt kê + tưởng tượng)

Chi tiết “mấy cái quán chơ vơ lộng gió”

bỗng chốc gợi lên một khung cảnh trơ trọi, lẻ loi và đầy cô quạnh. (Nhận xét bằng cách liệt kê + tưởng tượng)

Chẳng phải những hàng xá đông đúc, kẻ vào người ra như ta vẫn thường thấy, “mấy cái quán” ở đây đâu hề có một bóng người. (Nhận xét bằng cách tương phản)

Có chăng, những vị khách ghé đến cũng chỉ là những đợt lộng thổi của cơn gió đông tê buốt mà thôi. (Nhận xét bằng cách tưởng tượng)

Hoà trong không gian tiêu điều ấy là cái lấm lem của “rác bẩn rải rác lẫn với lá rụng của cây đề”.

Tưởng chừng như, khu chợ ấy đã bị con người ta quên lãng, chẳng còn được dụng tâm chăm lo, gom dọn. Thật chẳng khác chi một chốn tàn hoang không người. ( Nhận xét bằng cách TT)

Bức tranh bỗng chốc rung lên bởi những đợt cuộn thổi của làn gió mùa đông: “Gió thổi mạnh làm Sơn thấy lạnh và cay mắt”

Nào có phải cơn gió se mơn man trên từng thớ da, thớ thịt, cũng chẳng phải làn gió mang theo cái oi nồng của ngày hạ rực nắng, “gió” ở đây là gió trời đông, là cơn gió cuồn cuộn thổi đem theo cái tê buốt khiến con người ta phải “cay mắt”. (Nhận xét bằng cách TP).

Cơn gió hiện lên thật chẳng khác chi một vị hung thần của trời đông. (Nhận xét bằng cách TT)

Những tưởng rằng, sắc u ám, tái nhợt sẽ là gam màu chủ đạo phủ trùm lên bề mặt bức tranh, ấy thế nhưng, Thạch Lam đã tinh tế gieo vào bức tranh tranh của mình chút sáng trong của nền trời. Ba chữ “chân trời trong”

mở ra một bầu không bao la, xa rộng, quang đãng và không chút gợn mây, cảm tưởng như có thể nhìn xuyên thấu cả những ngôi làng xa xa. ( Nhận xét bằng cách LK + TT)

Không gian ấy như tưới mát tâm hồn, khiến con người ta cảm thấy yên ả và dịu êm đến vô nhường! ( Nhận xét bằng cách TT)

Quyện hoà cùng sắc xanh trong trẻo ấy là màu nâu sạm của những con đường khô rắn, nứt nẻ - “mặt đất rắn lại và nứt nẻ những con đường nho nhỏ”

Lại một lần nữa, không gian thân thuộc của chốn làng quê lại hiện lên trước mắt độc giả. Một bức tranh yên dịu và thanh tĩnh đến lạ thường. ( Nhận xét bằng cách TT)

Đặc sắc còn nằm ở chỗ, Thạch Lam đã tinh khéo sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh.

Bằng việc miêu tả tiếng “lanh tanh” trong nhịp guốc của hai chị em, nhà văn chẳng cần lắm từ nhiều ý mà vẫn thành công trong việc gợi ra một không gian tĩnh vắng, yên bình. (Nhận xét bằng cách nêu tác dụng NT)

Chốt: Như vậy, bằng những nét phác hoạ tinh anh và tài hoa, Thạch Lam đã khéo léo đem đến cho bạn đọc một bức tranh vừa đìu hiu, xơ xác, lại vừa điểm chút thanh yên, dịu dàng.

3.3 Nêu cảm nhận về các nhân vật Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc trong đoạn trích: Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc sán gần giương đôi mắt ngắm bộ quần áo mới của Sơn. Sơn nhận thấy chúng ăn mặc không khác ngày thường, vẫn những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Nhưng hôm nay, môi chúng nó tím lại và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi. Mỗi cơn gió đến, chúng lại run lên, hàm răng đập vào nhau.


Luận điểm: Dưới ngòi bút tài hoa của Thạch Lam, số phận của những đứa con nhà nghèo hiện lên thật đáng thương, đáng tội biết bao!

Dẫn dắt và trích dẫn/ biểu hiện

Cảm nhận

Hành động “sán gần giương đôi mắt ngắm bộ quần áo mới của Sơn”

đã làm gợn lên tâm khảm bạn đọc nỗi thương cảm, xót xa cho những mảnh đời túng thiếu, cơ cực. (Nhận xét bằng cách TT)

Hẳn rằng, các em đã khao khát chiếc áo ấy biết bao, đã ngưỡng mộ Sơn biết nhường nào nên mới chẳng thể nén lòng mình mà “giương đôi mắt” đong đầy những ao ước kia. (Nhận xét bằng cách lý giải)

Một chiếc áo mới vốn chỉ là một vật dụng giản đơn, một vật phẩm tưởng chừng như tất yếu phải có được, ấy vậy những với những đứa trẻ ấy, đó chỉ là những vọng tưởng vời xa. (Nhận xét bằng cách TP)

Chưa dừng lại ở đó, Thạch Lam còn chầm chậm đi vào miêu tả chi tiết cái xác xơ, khuyết hụt của những đứa trẻ nhà nghèo: “vẫn những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ”

Đáng lý ra, ở độ tuổi ấy, con trẻ phải được khoác trên mình những bộ cánh rực rỡ vàng đỏ, vậy mà ở đây, Cúc, Xuân, Tý, Túc chỉ có thể bận tạm những manh áo nâu đã bạc màu, lại chắp vả nhiều chỗ. (Nhận xét bằng cách TP)

Phó từ “vẫn” thể hiện rằng đây vốn là những trang phục hàng ngày mà lũ trẻ phải mặc đi mặc lại, không có sự đổi thay. (Nhận xét bằng cách giải nghĩa từ)

Trong cái lạnh tê buốt của tiết trời đông, có lẽ, áo khoác khăn đeo cũng chẳng đủ để ôm giữ hơi ấm cho con người nhưng thứ mà lũ trẻ có ở đây chỉ là những tà vải mỏng tang, sờn cũ. (Nhận xét bằng cách TP)

Phép liệt kê tài tình đã tô đậm sâu rõ hơn tình cảnh hẩm hiu của những mảnh đời nghèo túng: môi chúng nó tím lại…, da thịt thâm đi…chúng lại run lên, hàm răng đập vào nhau.”


Dưới ngòi bút Thạch Lam, lũ trẻ hiện lên với những gương mặt tái nhợt do giá rét, da thịt tím thâm bởi những đợt gió lùa, run rẩy và nheo nhóc. (Nhận xét bằng cách LK + TT)

Nếu có tấm áo dày hơn thì hẳn rằng, các em đã có thể chống chọi cái khắc nghiệt của trời đông. (Nhận xét bằng cách TP)

Chốt: Bằng cảm hứng nhân đạo cùng trái tim trĩu nặng tình yêu thương, nhà văn đã gieo vào lòng người đọc những rung cảm xót xa cho bao kiếp đời gian khó – những mầm non oằn mình vươn dậy trên mảnh đất cằn khố, quắt cứng.



III. KĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN PHÂN TÍCH 1 TÁC PHẨM TRUYỆN

1.Tìm ý và lập dàn ý

*Tìm ý: bằng cách trả lời các câu hỏi:

(1) Cốt truyện tác phẩm cần phân tích có gì đặc sắc?

(2) Chủ đề của truyện là gì? Ấn tượng chung của em sau khi đọc văn bản như thế nào?

 (3) Nhân vật nào cần chú ý phân tích?

(4) Nét đặc sắc và tác dụng của một số yếu tố nghệ thuật trong truyện là gì?

(5) Có thể rút ra những bài học nào từ văn bản truyện? Với em, điều sâu sắc và đáng nhớ nhất sau khi đọc truyện?

2. Cấu trúc gợi ý


Các phần

Yêu cầu cụ thể

Cấu trúc câu (gợi ý)

Ví dụ

Mở bài

Giới thiệu, tác giả, tác phẩm

- Nhận xét chung về chủ đề và vài nét nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm


Cách 1: Tác giả A là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học (Việt Nam/ văn học hiện đại), cách viết của ông thường (nhẹ nhàng/ hấp dẫn, thú vị) .... và mỗi sáng tác ông đều bày tỏ ..... (những suy tư, trăn trở, tình cảm của mình) về .... (tầng lớp nào trong xã hội). Có rất nhiều tác phẩm của ông đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng bạn đọc, trong đó là truyện “B”. “B” là tác phẩm thể hiện .... (chủ đề gì?).


Cách 2:  Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sang, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn A với truyện “B” đã để tiếng lòng của mình cất lên, khơi gợi trong tâm trí bạn đọc bao suy tư vương vấn. Truyện “B” đã in dấu trong lòng độc giả về…..


Thân bài

Bước 1: Nêu nội dung chính hoặc tình huống của tác phẩm (chú ý nêu những sự kiện, tình tiết chính, nhất là những chi tiết gây ấn tượng đối với em).

Bước 2: Phân tích lần lượt các chủ đề (nếu nhiều chủ đề)

- Đó là chủ đề gì?

- Đưa ra các bằng chứng làm sáng tỏ chủ đề:

+ Phân tích ý nghĩa của nhan đề (nếu nhan đề đặc biệt);

+ Nhân vật thứ nhất (các chi tiết về hoàn cảnh, việc làm, cử chỉ, lời nói…) trong mối quan hệ với các nhân vật khác

+  Nhân vật  thứ hai (nếu đáng chú ý) là người thế nào, những chi tiết nào thể hiện điều đó?...

- Cảm xúc, thái độ của tác giả đối với nhân vật? (ngợi ca/ trân trọng/ xót thương/ phê phán/ tố cáo)

Bước 3: Phân tích tác dụng của các nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện: nghệ thuật xây dựng nhân vật, cốt truyện, tình tiết, lời văn, ngôi kể, ...

+ Nêu dẫn chứng và phân tích, chú ý những chi tiết đặc sắc, gây ấn tượng trong cảm nhận của em?

+ Nghệ thuật đó có tác dụng gì trong việc chuyển tải nội dung?

Bước 4 (ăn điểm sáng tạo): Liên hệ với một số tác phẩm cùng chủ đề (Có thể dẫn ra một vài tác phẩm có cùng chủ đề hoặ  cùng bút pháp nghệ thuật => Nhận xét nét riêng, nét đặc sắc của tác phẩm)

Để làm sáng tỏ chủ đề ấy, tác giả đã khéo léo xây dựng các chi tiết miêu tả (lời nói/ hành động/ suy nghĩ) của nhân vật C, D: “……..”. Những chi tiết này đã chứng tỏ/ khắc hoạ rõ nét/ bộc lộ/ hé mở/ cho ta thấy…

Tiếp theo, truyện “B” còn làm nổi bật chủ đề /thông điệp….(nếu có)

Tác giả đã sử dụng/ dựng nên/ miêu tả/ vẽ ra…. Qua các hành động/ lời nói/ suy nghĩ/ chi tiết ấy, ta có thể cảm nhận được/ hiểu rằng/ thấu hiểu/ …

Bước 3: Truyện “B” đã sử dụng nhiều yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Tác giả đã xây dựng tình huống truyện đặc sắc, ngôn ngữ kể chuyện lôi cuốn, nhân vật được khắc hoạ thông qua … (ngôn ngữ, lời nói, hành động, tâm lí) tài tình. / ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật, nghệ thuật khác…

Bước 4: Đọc truyện “B”/ Tìm hiểu về nhân vật C, tôi bất giác nhớ tới nhân vật D trong tác phẩm “…” của nhà văn… D cũng là một người… Thì ra họ đều có những phẩm chất/ số phận… Từ đó, ta hiểu thêm về cuộc sống, xã hội ra sao?

Bước 1: “Truyện ngắn Chí Phèo là câu chuyện về nhân vật cùng tên Chí Phèo – một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ. Hắn được người làng chuyền tay nhau nuôi. Lớn lên, Chí Phèo đi ở hết nhà này tới nhà nọ và làm canh điền cho Lý Kiến. Vì ghen tuông vô lí, Lý Kiến đẩy Chí Phèo vào tù. Bảy năm sau Chí Phèo trở về làng trong một bộ dạng khác hẳn của một tay anh chị. Hắn bị Bá Kiến lợi dụng và biến thành tay sai. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chuyên rạch mặt ăn vạ và gây tai họa cho người trong làng.

Mối tình với Thị Nở đã làm Chí Phèo hồi sinh, hắn khao khát làm hòa với mọi người và sống lương thiện. Nhưng bà cô Thị Nở và cái xã hội đương thời đã chặn đứng con đường trở về làm người lương thiện của Chí . Tuyệt vọng, hắn tìm giết Bá Kiến và tự sát. Nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn xuống bụng và thầm nghĩ đến một cái lò gạch bỏ không, xa đường cái và vắng người qua lại.

Bước 2:

* (Phân tích chủ đề 1 ) Truyện “Chí phèo” đã phản ánh cuộc sống cùng quẫn, đen tối của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám; khơi sâu bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của những người cùng khổ như Chí Phèo

- Hình tượng nhân vật Chí Phèo với số phận bất hạnh, tăm tối, trượt dài trên con dốc của sự tha hoá.

+ Lai lịch, cuộc đời Chí Phèo trước khi ở tù

Lai lịch của Chí Phèo không trọn vẹn. Hắn là đứa trẻ không cha, không mẹ, không bà con, không tấc đất. Ngay từ khi mới sinh, hắn bị bỏ rơi ở lò gạch. Một người thả ống lươn đưa về, rồi bán cho bà goá mù, rồi bán cho bác Phó Cối. Chí Phèo không có tuổi thơ, sống mải mê đi nhà này sang nhà khác. Trưởng thành, hắn làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến, một địa chủ tàn bạo. Dù bị bóc lột, Chí Phèo trước đây là nông dân lương thiện, khỏe mạnh và thuần khiết về tâm hồn.

+ Sự tha hoá của Chí Phèo, đánh mất đi nhân dạng và nhân tính:

Quãng đời lương thiện của Chí Phèo chấm dứt nhanh chóng vì bàn tay độc ác của giai cấp thống trị. Bá Kiến ghen tuông và đẩy Chí Phèo vào tù. Nhưng nhà tù, công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân, chỉ làm tăng thêm đau khổ cho Chí Phèo. Từ làng Vũ Đại vào tù, Chí Phèo là con người; từ tù trở về làng Vũ Đại, hắn trở thành con quỷ. Khi trở về, bộ dạng kì quái của Chí Phèo gây kinh ngạc: 'đầu trọc, răng cạo trắng, đôi mắt gườm gườm, trông rợm chó.'. 

Nam Cao tập trung vào nội tâm nhân vật hơn là ngoại hình. Trong quá trình tha hoá, Chí Phèo không chỉ mất đi vẻ ngoại hình khỏe mạnh, mà còn mất đi tính cách thuần khiết. Trên đường đến nhà Bá Kiến, với tay cầm cổ chai, Chí Phèo vừa đi vừa chửi rủa, nhưng sau tiếng chửi là ý thức mơ hồ về bi kịch cuộc đời, là nỗi căm phẫn, tuyệt vọng. Trong sự cô đơn, Chí Phèo chỉ được đáp lại bởi âm thanh của vài con chó, trở thành một con vật sống giữa sự lạnh lẽo của xã hội loài người.

Giờ đây, để tồn tại với bọn cường hào (kẻ ưa ăn thịt người), Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước. Muốn sống, hắn phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, tìm thấy ở rượu. Cuộc đời Chí Phèo giờ đây được định đoạt bằng những cơn say và những tội ác. Hắn là công cụ tội ác trong tay bọn thống trị...

Đẻ ra người nông dân lương thiện là bà mẹ hiền lành, nhưng để ra Chí Phèo lưu manh, bị tha hoá, bị đầy đọa, lăng nhục, mất cả nhân tính và nhân hình, là toàn bộ xã hội thực dân phong kiến bất công, tàn bạo, vô nhân đạo.

- Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo:

Bi kịch của Chí Phèo không chỉ là sự tha hoá và lưu manh. Hắn còn đối mặt với bi kịch lớn hơn: bị cự tuyệt quyền làm người. Gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ, mang lại tình yêu và làm thức tỉnh chất người trong Chí Phèo. Hắn biết buồn vì sự cô đơn, nhớ về quá khứ với ước mơ về một gia đình hạnh phúc, bình dị. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở là tia chớp loé lên trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo.

Tình yêu thương là nguồn động viên mạnh mẽ, thức tỉnh trái tim con người và đánh thức khao khát lương thiện. Chí Phèo, với lòng trắc ẩn, chạm đến tâm hồn người đọc. Hắn khao khát hòa mình vào thế giới lương thiện của những con người tốt lành. Thị Nở, như một chiếc cầu, dẫn lối Chí Phèo trở lại con đường của sự lương thiện. Câu trả lời của Thị Nở quyết định số phận của Chí: liệu hắn có được kết nạp trở lại xã hội con người hay sẽ bị giam cầm mãi mãi trong cuộc sống đen tối của sự thù hận. Chí Phèo tràn ngập hy vọng, nhưng cánh cửa hy vọng lại đóng sầm, bởi bà cô Thị không chấp nhận Thị Nở lấy một người chỉ biết nghề rạch mặt. Thật trách bà cô - biểu tượng của sự đen tối, định kiến và bất công trong làng Vũ Đại, cũng như trong xã hội. Mọi người trong làng coi Chí Phèo như quỷ ác, không có chỗ cho lòng nhân đạo! Chí Phèo đã trải qua những khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời qua tình yêu, rồi lại đối mặt với những giây phút đau đớn nhất trong thảm kịch tâm lý của mình. Rượu không thể xua đi nỗi đau... 'hắn ngửi thấy hương vị chảo hành thoang thoảng' - hương vị của tình người, tình thương mà Chí Phèo không bao giờ quên, dù chỉ trải qua một lần ngắn ngủi; hắn ôm mặt khóc rưng rức. Giọt nước mắt của Chí Phèo là biểu hiện tối cao của đau đớn khi nhận ra bản thân đã bị từ chối quyền làm người.

Chí Phèo lại uống rượu và cầm dao ra đi. Nhưng hắn không quay về nhà Thị Nở như kế hoạch ban đầu mà thẳng đến nhà Bá Kiến. Trong cảm giác đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo trở thành người tỉnh thức, tâm trí sáng tạo nhất trong làng Vũ Đại. Hắn nhận ra tội ác của kẻ đã lấy đi hình dáng và linh hồn của hắn - Bá Kiến. Chí Phèo quyết định đối đầu để trả thù. Trước mặt Bá Kiến, Chí Phèo chỉ vào khuôn mặt lão và đòi lại quyền làm người, yêu cầu được sống một cuộc sống lương thiện. Hắn sử dụng dao để giết Bá Kiến. Khi Bá Kiến chết, Chí Phèo quay về để tự kết thúc cuộc sống của mình. Chí Phèo chết vì không tìm thấy lối thoát, vì xã hội từ chối cho hắn sống. Ý thức nhân quả đã trở lại, Chí Phèo không chấp nhận sống như một con thú nữa và quyết định tìm kiếm cái chết. Chí Phèo qua đời trên bước cửa trở về cuộc sống và cái chết của hắn cũng là cái chết thảm của một sinh linh. Nó là sự lên án sâu sắc và mạnh mẽ về xã hội.

Trước đây, để bám lấy cuộc sống, Chí Phèo đã phải từ bỏ nhân phẩm. Nhưng khi ý thức nhân quả trỗi dậy, Chí Phèo lại phải đối mặt với việc chấm dứt cuộc sống của mình. Lật lại trang sách, ta còn nghe rõ câu hỏi của Chí Phèo: 'Ai là người ban tặng cho tôi sự lương thiện?'. Đó không chỉ là một câu hỏi, mà là một lời than phiền đau đớn, khiến hàng triệu trái tim đọc giả cảm thấy xót xa: làm thế nào để con người tồn tại trong một xã hội đen tối đang đè nén nhân tính? Câu hỏi của Chí Phèo là 'Một câu hỏi lớn. Không có lời đáp' thực sự đầy oan trái, đầy tuyệt vọng! Đây chính là bi kịch lớn nhất của nhân vật đáng quý này.

* (Phân tích chủ đề 2 )  T hể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Nam Cao, nhất là bộc lộ tấm lòng thương cảm sâu xa, thái độ trân trọng thực sự những phẩm chất tốt đẹp của con người. Đồng thời, truyện cũng phê phán giai cấp thống trị tàn bạo đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng

- Truyện ngợi ca khát vọng hướng thiện và sức mạnh diệu kỳ của tình yêu thương giữa con người

Tưởng rằng Chí sẽ bị trượt dài trên con đường lưu manh nhưng Thị Nở xuất hiện ở với Chí trong một đêm trăng sáng đã nâng đỡ con người kia dậy. Buổi sáng hôm sau khi thức dậy Chí đã hoàn toàn tỉnh rượu. Chi tiết Chí Phèo tỉnh rượu sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở ở bờ sông đã khẳng định một điều rằng phần người trong Chí Phèo vẫn đang còn tồn tại. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí Phèo tỉnh dậy chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Những âm thanh ấy ngày nào mà chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Một con quỷ dữ mà cũng cảm nhận được những điều tinh tế đó sao? Từ khi ra tù về, đây là lần đầu tiên Chí Phèo thấy tỉnh. Nhưng qua chi tiết này ta thấy rằng Nam Cao không trách, không giận Chí Phèo mà ngòi bút của ông dành cho nhân vật này vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật vẫn là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mạnh mẽ, tha thiết. 

Tiếp ngay sau đó, một chi tiết có thể được xem là “nhãn tự” của truyện ngắn này đó chính là chi tiết bát cháo hành và hơi cháo hành. Khi Chí Phèo đang suy nghĩ sau cơn tỉnh rượu thì với bàn tay ân cần của mình, Thị Nở đã khơi dậy trong Chí phần người bằng một bát cháo hành. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Kỳ diệu làm sao bát cháo hành Thị Nở, là một liều tiên dược vừa gải cảm vừa giải độc. Đó là hương vị của tình người, của tình thương và tình yêu- một thứ tình cảm mộc mạc và chân thành. Khi cả làng Vũ Đại không chấp nhận Chí là con người thì Thị Nở đã dang rộng vòng tay để đón lấy anh. Và bát cháo hành kia vô hình chung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho một mối thiên duyên. Cảm giác hạnh phúc được sống trong tình thương đã đánh thức chất người trong Chí- cái bản chất lương thiện lâu nay đã tưởng chết hẳn trong cái lốt của một con quỷ dữ. Chi hiểu ra rằng người ta sống với nhau không chỉ bằng tội ác mà còn cả bằng tình thương yêu nữa. Chí đã thực sự hiểu ra chính mình, đã thực sự thay đổi.

Song song cùng với bát cháo hành là hơi cháo hành. Dường như cái hơi cháo hành đã làm mắt của Chí ươn ướt, nó phảng phất phục sinh phần người trong Chí… Hắn có thể sống với người ta bằng tình yêu, hắn nhen nhóm ước mơ về một cuộc sống bình dị… Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí cả… Hương cháo giản dị, mộc mạc đến đơn sơ nhưng bao nhân tính ẩn chứa, nó giữ chân Chí Phèo đứng lại ở bờ của phần người… Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ…” Đó là giây phút mà hắn người nhất. Đã hai lần Thị Nở đã phải thốt lên “Ôi sao mà hắn hiền!” rồi “Những lúc tỉnh táo hắn cười nghe thật hiền”. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Phần quỷ tạm thời rũ bỏ. Đó là giây phút Chí thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “Giá cứ như thế này mãi thì tốt nhỉ…” hay “mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”

- Truyện phê phán giai cấp thống trị tàn bạo đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng

Chân dung lão cường hào cáo già bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm với những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là giọng quát rất sang (bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh con người), lối nói ngọt nhạt, và nhất là cái cười Tào Tháo (cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy). Tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào khôn róc đời này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ – lão cay đắng nhận ra mình già yếu quá mà bà tư thì cứ trẻ, cứ phây phây, nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ…khác gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng; đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng…và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà cụ bá được hoàn chỉnh, còn có bà tư quỷ cái thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại cứ bóp lên trên, trên nữa…Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng tuy không kém phần thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.

Bước 3:

- Truyện “Chí phèo” đã sử dụng nhiều yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Trước hết là bút pháp điển hình hóa nhân vật: Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình đặc sắc trong tác phẩm. Vừa sinh động, độc đáo, không lặp lại, các nhân vật này mang sức khái quát cao cho mối xung đột diễn ra khốc liệt ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Hắn là điển hình sinh động cho những người nông dân cố cùng bị hủy hoại, tha hoá đến tận cùng bởi thế lực tàn bạo. Chưa dừng lại ở đó, Nam Cao còn khéo léo vận dụng kết cấu vòng tròn, khép kín đã tạo nên chiều sâu cho truyện (Mở đầu truyện bằng hình ảnh Chí say rượu chửi bới om sòm, kết thúc bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng nghĩ đến một cái lò gạch xa xôi vắng người qua lại...). Kết cấu này cho thấy số phận bế tắc, quẩn quanh không lối thoát của kiếp người trong xã hội bóc lột. Đặc biệt, điều làm nên sức sống bất diệt cho thiên truyện hẳn phải kể đến nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình trong tác phẩm. Số phận và bi kịch của Chí Phèo được đào sâu cực độ qua những đoạn văn hay như đoạn Chí Phèo thức tỉnh sau đêm say rượu gặp Thị Nở; đoạn Chí Phèo bị cự tuyệt tình yêu..Ngoài ra, giọng trần thuật cũng được thay đổi phù hợp với diễn biến tâm lý nhân vật, khi thì dùng lời kể trực tiêp, khi thì nửa trực tiếp, khi lại có sự đan xen giữa hai giọng kể trên một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn (đoạn văn mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả tâm trạng khi ăn bát cháo hành, đoạn độc thoại nội tâm của Bá Kiến).

Kết bài

Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện. Nêu tác động của truyện đối với em.

- Cách 1: Tác phẩm “B” đã khép lại nhưng dư âm của truyện vẫn còn vang đọng mãi trong tâm trí bạn đọc. Truyện “B” sẽ mãi ngân lên trong ta niềm xúc động về cuộc sống của những con người…, nhắc nhở ta về việc cần biết…. . Tôi tin rằng, theo nhịp chảy đều đặn của thời gian, truyện “B” của nhà văn A sẽ luôn được bạn đọc yêu quý, đón nhận.

- Cách 2: Thời gian vẫn trôi đi và phủ bụi lên bao sáng tác của muôn thế hệ trước. Nhưng đúng là những tác phẩm có giá trị, có khả năng chạm tới trái tim bạn đọc sẽ còn được nhắc mãi về sau. Tôi tin rằng truyện “B” của nhà văn A sẽ có sức sống thật lâu bền và luôn được bạn đọc yêu quý, đón nhận. Dù truyện đã khép lại nhưng những dư âm của truyện sẽ còn thắp lên trong ta bao mong mỏi/ suy nghĩ về….(những con người như nào/ cuộc sống ra sao/ bài học gì?)